Vì sao Kim Cương thừa không được truyền giảng rộng rãi khi Đức Phật tại thế?

Trong thời kỳ Đức Phật tại thế, có nhiều đệ tử truyền giảng Tiểu thừa mà đệ tử Đại thừa có căn khí lớn lại rất ít, thậm chí ngay cả giáo pháp của Đại thừa cũng không được phổ cập. Còn Kim Cương thừa, nghĩa lý cao siêu, người hạ căn nghe không những không lĩnh hội được mà còn có thể nảy sinh tà kiến.

Vì sao Kim Cương thừa không được truyền giảng rộng rãi khi Đức Phật tại thế?

Bản thân Kim Cương thừa là Mật truyền, Mật tu và Mật thành tựu, không thích hợp với việc lưu truyền rộng rãi. Vì vậy, vào thời kỳ Đức Phật tại thế, Kim Cương thừa không được lưu truyền rộng rãi, Ngài chỉ giảng về Kim Cương thừa 2 lần khi đã gần 80 tuổi. Lần thứ nhất là tại Vaishali, nơi Đức Phật chủ yếu tập trung giảng về Phật tính (tức khả năng vốn có của tất cả chúng sinh trong việc đạt được trí tuệ như Đức Phật). Lần thứ hai, Đức Phật giảng về Kim Cương thừa, và sau cùng, Ngài giảng về việc làm thế nào để khai mở Phật tính bên trong.

Trong thời kỳ Đức Phật tại thế, có nhiều đệ tử truyền giảng Tiểu thừa mà đệ tử Đại thừa có căn khí lớn lại rất ít, thậm chí ngay cả giáo pháp của Đại thừa cũng không được phổ cập. Còn Kim Cương thừa, nghĩa lý cao siêu, người hạ căn nghe không những không lĩnh hội được mà còn có thể nảy sinh tà kiến.

Bởi vậy, Kim Cương thừa luôn được coi là truyền thừa bí mật bởi việc thực hành đòi hỏi căn cơ và trình độ nhất định. Thông thường, khi thực hành Kim Cương thừa, chúng ta được xem như đã có những hiểu biết nhất định về Tiểu thừa và Đại thừa là những nền tảng căn bản để đi vào Kim Cương thừa. Khi bắt đầu tu tập Kim Cương thừa, điều tối quan trọng là hành giả cần thụ nhận quán đỉnh. Đây chính là ngưỡng cửa và là đặc trưng của Kim Cương thừa để hành giả có thể thực hành nghi quỹ tu trì theo một Bản tôn nhất định. Nói cách khác, quán đỉnh là nghi thức mà một bậc Thượng sư tu chứng trao truyền thể nhập thực hành trực tiếp một pháp môn cho đệ tử, bao gồm mô tả, giảng nghĩa, quán tưởng, thứ lớp tu tập cùng với các nghi lễ cúng dường và chân ngôn tương ứng. Mặc dù vậy, quán đỉnh còn mang ý nghĩa nhiều hơn những gì cấu thành nên nó; đó là sự trao truyền nguồn ân phúc và năng lực gia trì của cả một dòng Truyền thừa, và là sự giới thiệu trực tiếp vào thực tại tuyệt đối, trí tuệ bất nhị hay chân tính của vạn pháp. Do vậy nếu bạn không có những hiểu biết về Đại thừa mà bước ngay vào Kim Cương thừa thì bạn không thể vững tiến trên đường tu.

Cũng chính vì lý do này mà trước đây Kim Cương thừa được trì giữ trong bí mật, và chỉ những đệ tử sẵn sàng hiểu biết thực tại tuyệt đối mới được truyền trao. Nếu hành giả không có những tri kiến căn bản về vô thường, xả ly, khổ đau của luân hồi, nghiệp và kế đó là khai phát Bồ đề tâm mạnh mẽ và hoàn thiện các Ba la mật, mà trực tiếp đi thẳng vào chân lý tuyệt đối của vạn pháp thì ngay lập tức họ không thể hiểu được hoặc có thể rơi vào tà kiến của cách hiểu sai lệch do thiếu trí tuệ thực chứng và điều này vô cùng nguy hiểm. 

Như vậy là ở Ấn Độ trước kia, Kim Cương thừa chỉ được trao truyền cho những hành giả đã đạt được cấp độ nhất định. Tuy nhiên, trong quá trình lịch sử phát triển sau này tại Tây Tạng, Nepal, Bhutan và các quốc gia thuộc dãy Himalaya, Kim Cương thừa lại được quan tâm rộng rãi và trở thành một thực hành có tính phổ biến. Do phải có một phương pháp thích hợp đáp ứng đại chúng nên các chư Thượng sư đã thiện xảo tìm ra phương pháp dung chứa tất cả các thừa, từ Nguyên thủy Phật giáo, Đại thừa cho đến Kim Cương thừa trong pháp môn tu tập thuộc Kim Cương thừa.

Viết bình luận

Bình luận

Hiện tại bài viết này chưa có bình luận.

Bài viết liên quan:

PHÁP TU TÂY TẠNG DÀNH CHO PHẬT TỬ NHẬP MÔN - Đức Đalai Lama giảng

Phụ Lục 2: Chánh Văn – Tám Thi Kệ Chuyển Tâm Geshe Langri Thangpa (thế kỷ thứ 12) Bản tiếng Việt 1.      Với quyết tâm thành tựu Lợi lạc lớn lao nhất Nhờ tất cả chúng sinh, Tôi nguyện luôn giữ gìn Chúng sinh trong đáy tim, Vì chúng sinh quí hơn Cả bảo châu như ý. 2.      Khi gặp gỡ tiếp xúc Với bất kỳ một ai, Nguyện tôi luôn thấy mình Là kẻ thấp kém nhất, Từ đáy lòng chân thật Luôn tôn kính mọi người Như kính bậc tối cao. 3.      Nguyện trong từng hành động Tôi luôn tự xét mình, Phiền não vừa dấy lên, Ðe dọa mình và người, Nguyện tức thì nhận...

PHÁP TU TÂY TẠNG DÀNH CHO PHẬT TỬ NHẬP MÔN - Đức Đalai Lama giảng

Nguyện qui y Phật,
là bậc toàn giác / là đại đạo sư
giáo hóa chúng sinh / bằng với chánh pháp
trong sáng chân thật / đến từ trí tuệ
chứng ngộ viên mãn.

 

PHÁP TU TÂY TẠNG DÀNH CHO PHẬT TỬ NHẬP MÔN - Đức Đalai Lama giảng

OM WAGI SHVARI MUM là minh chú của Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, rất tốt cho sinh viên học sinh. Tụng chú này tăng trí thông minh, giúp đầu óc bén nhạy. Nhiều lúc chúng tôi tụng DHIH DHIH DHIH DHIH một trăm lẻ tám lần liên tục hay nhiều hơn, trong cùng một hơi thở. Lấy một hơi thật dài, rồi tụng một mạch DHIH DHIH DHIH DHIH… làm như vậy trí nhớ sẽ gia tăng.

PHÁP TU TÂY TẠNG DÀNH CHO PHẬT TỬ NHẬP MÔN - Đức Đalai Lama giảng

Ai cũng biết rằng khi chết, tiền tài danh vọng hay quyền lợi trong đời tất cả đều không thể giúp được gì. Ðời sống tự nó là một hiện tượng biến chuyển liên tục. Nếu chỉ quan tâm đến đời sống hiện tại mà quên đi mọi kiếp về sau, làm như vậy dễ sinh tâm mê đắm hưởng thụ kiếp này, càng lúc càng nhiều chấp vọng, càng thêm tham đắm. 

PHÁP TU TÂY TẠNG DÀNH CHO PHẬT TỬ NHẬP MÔN - Đức Đalai Lama giảng

Mỗi khi gặp khó khăn trong cuộc sống, có một phương pháp đối phó rất đơn giản là quên đi tất cả. Bao giờ tinh thần mỏi mệt, tâm trí nặng nề, ta có thể vất hết sau lưng, đi nghỉ mát vài ngày, một tuần. Nhưng phương pháp này dù sao vẫn rất tạm bợ. Vấn đề còn nguyên chưa được giải quyết.

PHÁP TU TÂY TẠNG DÀNH CHO PHẬT TỬ NHẬP MÔN - Đức Đalai Lama giảng

Tây Tạng có một câu chuyện như sau: một hôm trời đổ mưa lớn, bên đường có pho tượng Phật đẫm nước mưa. Có người đi ngang thấy vậy nghĩ rằng: “Không thể để Phật ướt”. Anh ta nhìn quanh, thấy có đôi giày cũ vất bên đường, bèn nhặt để lên đầu tượng Phật để che mưa. Một người khác đi ngang, thấy vậy nghĩ rằng: “Ai lại để giày trên đầu tượng Phật?” Anh ta bèn lượm giày vất đi. Cả hai đều có tâm tốt lành đối với tượng Phật, vì vậy hành động tuy trái ngược nhưng đều gieo thiện nghiệp như nhau.

PHÁP TU TÂY TẠNG DÀNH CHO PHẬT TỬ NHẬP MÔN - Đức Đalai Lama giảng

Trong tất cả những công phu hành trì Phật giáo, phát tâm bồ đề được xem là công phu quan trọng quí giá nhất. Tâm bồ đề bắt rễ từ đại bi. Không có chúng sinh thì không thể khởi tâm đại bi. Phật đà và Bồ tát có thể hộ trì cho ta phát tâm bồ đề, nhưng không thể giúp chúng ta phát tâm đại bi. Ðại bi chỉ có thể có được nhờ hướng về chúng sinh.

PHÁP TU TÂY TẠNG DÀNH CHO PHẬT TỬ NHẬP MÔN - Đức Đalai Lama giảng

Khế kinh dạy nhân nào sinh quả nấy. Tất cả mọi kinh nghiệm chúng ta đang trải qua đều là quả, sinh ra từ nhân là hành động của chính mình trong quá khứ. Ngoài ra không có Đấng Sáng Tạo nào khác, cũng không có Đấng Tối Cao nào hiện hữu trường tồn, vượt ngoài nhân quả.

Phật dạy có hai loại nhân quả. Một là nhân quả tương ứng với quá trình ô nhiễm, ví dụ nhân ác độc sinh quả khổ đau. Hai là nhân quả tương ứng với quá trình thanh tịnh, ví dụ nhân tốt lành sinh quả an lạc.

Pháp Khí Mật Tông - Bảo Liên. Cung cấp bởi Sapo.
Lên đầu trang
Pháp Khí Mật Tông Pháp Khí Mật Tông Pháp Khí Mật Tông
Trang chủ Danh mục Liên hệ Tài khoản Giỏ hàng