Bổn Tôn này có tên Phạn là EKÀDA’SA MUKHA AVALOKITE’SVARA, dịch âm là Ế Ca Na Xà Mục Khư A Phộc Lộ Chỉ Đế Thấp Phộc La. Dịch nghĩa là Thập Nhất Diện Quán Tự Tại, Thập Nhất Diện Quán Thế Âm, Thập Nhất Diện Quán Âm. Cầu đảo Tôn này có thể trừ bệnh diệt tội.
- Theo truyền thống của Bà La Môn Giáo: Ở Ấn Độ thì Tôn này là Thập Nhất Hoang Thần (Ekàda’sa Rudra). Vào khoảng Thế Kỷ thứ 5, thứ 6 sau Công Nguyên thì Tôn này được du nhập vào Phật Giáo dưới hình thức là một Hóa Thân của Bồ Tát Quán Tự Tại.
- Theo truyền thống của Phật Giáo Tây Tạng: Ở vô lượng kiếp trước, với Tâm Đại Bi vô hạn, Quán Thế Âm Bồ Tát muốn cứu thoát tất cả chúng sinh ra khỏi biển khổ sinh tử luân hồi, nên đối trước chư Phật 10 phương, Ngài phát nguyện rằng:” Nguyện cho con cứu được tất cả chúng Hữu Tình. Nếu có khi nào con mệt mỏi trong công việc lớn lao này thì nguyện cho thân con tan thành ngàn mảnh”
Thoạt tiên Ngài xuống cõi Địa Ngục, sau đó đến cõi Ngạ Quỷ và tiến dần đến cõi Trời. Tại đấy, Ngài nhìn xuống Thế Giới đau khổ với cái nhìn thấu hiểu của Thánh Trí thì Tâm Ngài bị xúc động sâu sắc. Vì mặc dù Ngài đã cứu nhiều chúng sinh thoát khỏi Địa Ngục nhưng vẫn còn có vô số chúng sinh khác đang sa vào. Điều này làm Ngài buồn rầu vô hạn. Trong một lúc, gần như Ngài đã mất niềm tin vào lời nguyền vĩ đại mà Ngài đã tuyên thệ và thân thể Ngài liền nổ tung thành ngàn mảnh. Giữa cơn tuyệt vọng, Ngài cầu cứu tất cả chư Phật. Ngay lập tức, hằng hà sa số chư Phật từ 10 phương đều hiện thân đến cứu giúp. Với Thần Lực nhiệm mầu, chư Phật làm cho Ngài hiện trở lại toàn thân và từ đấy Ngài có 11 cái đầu, 1000 cánh tay, trên mỗi bàn tay có một con mắt. Sự kiện này biểu thị cho sự phối hợp giữa Trí Tuệ và phương tiện thiện xảo, là dấu hiệu của Tâm Đại Bi chân thật. Trong hình thức này, Ngài đã sáng chói rực rỡ và có nhiều năng lực lớn hơn để cứu giúp chúng sinh. Do vậy Ngài còn có tên gọi là Thiên Thủ Thiên Nhãn Thập Nhất Diện Quán Thế Âm.
Trong truyền thống này thì Ngài có thân màu trắng. 11 mặt xếp thành 5 tầng:
- 3 mặt của tầng một có mặt chính giữa màu trắng, mặt bên phải màu xanh lục, mặt bên trái màu đỏ.
- 3 mặt của tầng thứ hai có mặt chính giữa màu xanh lục, mặt bên phải màu đỏ, mặt bên trái màu trắng.
- 3 mặt của tầng thứ ba có mặt chính giữa màu đỏ, mặt bên phải màu trắng, mặt bên trái màu xanh lục. Tất cả khuôn mặt đều có mắt dài và nhỏ như đang mỉm cười.
- 1 mặt của tầng thứ tư là khuôn mặt màu đen biểu lộ sự phẫn nộ, miệng ló răng nanh, có 3 mắt và tóc màu cam dựng đứng.
- 1 mặt của tầng thứ năm là khuôn mặt hiền hòa màu đỏ đội vương miện.
- 2 tay đầu tiên chắp lại trước ngực cầm viên ngọc báu.
Bên phải:Taythứ hai cầm tràng hạt, tay thứ ba kết Diệu Thí Thắng Ấn, tay thứ tư cầm Pháp Luân.
Bên trái:Taythứ hai cầm hoa sen vàng, tay thứ ba cầm bình có chứa nước Cam Lộ, tay thứ tư cầm cung tên.
- 992 tay còn lại đều mềm mại như những cánh sen kết Diệu Thí Thắng Ấn.
Trong mỗi lòng bàn tay đều có một con mắt, không một cánh tay nào vượt quá vương miện và cũng không buông thấp quá đầu gối.
Ngực trái của Ngài được che bằng miếng da hươu. Trang phục bên dưới làm bằng lụa vải tốt, thắt lưng bằng vàng có nạm ngọc quý, vương miện cũng nạm ngọc quý và thân của Ngài được trang điểm bằng mọi loại báu như vòng, xuyến, anh lạc, lụa nhiều màu… tỏa ánh hào quang sáng ngời.
Do Tôn này biểu thị cho Pháp Liên Hoa Kim Cương (Padma Vajra) nhằm giúp cho Chúng Sinh phá tan phiền não chướng đang ngăn che ánh sáng Thắng Diệu của Trí Tuệ bản nhiên thanh tịnh trong tâm của mình nên các bậc Đạo Sư Tây Tạng thường truyền dạy Pháp tu này và gọi Đại Chú của Ngài là Đại Bi Chú.
Theo truyền thống Hoa Văn:
Hiện Đồ Thai Tạng Giới Mạn Trà La ghi nhận rằng:
Thập Nhất Diện Quán Âm có vị trí ở đầu bên phải của Viện Tô Tất Địa, Mật Hiệu là Biến Dị Kim Cương .
Chủng Tử là KA là chữ lược của Kàrunika (Bậc có tâm Bi) biểu thị cho Tác Nghiệp, dùng phương tiện Đại Bi tế độ chúng sinh, tạo tác nghiệp lành thuộc Thế Gian và Xuất Thế Gian. Tam Muội Gia Hình là Bình Quân Trì.
Hay chủng tử là SA biểu thị cho sự khai mở Tâm Bồ Đề vốn có của tất cả chúng sinh. Tam Muội Gia Hình là hoa sen hé nở.
Trong Viện này thì Ngài có thân màu trắng với 11 đầu chia làm 3 tầng: Tầng một có 3 mặt. Tầng hai có 5 mặt, tầng ba có 3 mặt. Thân ngồi Bán Già trên đài sen có 4 tay, bên phải: Tay thứ nhất kết Thí Vô Úy An, tay thứ hai cầm tràng hạt. Bên trái: Taythứ nhất cầm hoa sen hé nở, tay thứ hai cầm bình Quân Trì.
Thập Nhất Diện Thần Chú Tâm Kinh ghi nhận rằng:
Tôn Tượng có 11 mặt, 4 tay. Bên phải: Tay thứ nhất cầm tràng hạt, tay thứ hai kết Thí Vô Úy Ấn. Bên trái: Taythứ nhất cầm hoa sen, tay thứ hai cầm bình Quân Trì.
11 mặt gồm có: 3 mặt ngay phía trước có tướng tịch tĩnh (hay từ bi), 3 mặt bên trái có tướng uy nộ, 3 mặt bên phải có tướng ló răng nanh bén, 1 mặt phía sau có tướng cười giận, 1 mặt bên trên có tướng Như Lai (1 Hóa Phật của A Di Đà Phật).
Trong mão trên mỗ đầu đều có vị Hóa Phật. Thân tướng có mọi loại anh lạc trang nghiêm.
Đà La Ni Tập Kinh, một vài Kinh do Ngài Huyền Trang dịch và hình tượng lưu bố trong nhân gian thì Thập Nhất Diện Quán Thế Âm có 11 mặt và 2 tay với tay bên phải cầm Pháp Khí (hoặc cầm bình Quân Trì với hoa sen), tay bên trái cầ tích trượng (hoặ đeo tràng hạt và kết Dữ Nguyện Ấn).
Mộ số Đạo Sư Mật Giáo lại nhận định rằng: Thập Nhất Diện Quán Âm là vị Hóa Tôn củ Tu La Đạo, có biệt danh là Đại Quang Phổ Chiếu Quán Thế Âm và Mật Hiệu là Từ Mẫu Kim Cương (hoặc Từ Oán Kim Cương).
Ý NGHĨA CỦA 11 MẶT
Ý nghĩa của 11 mặt được nhận định theo nhiều cách khác nhau:
Thập Nhất Diện Thần Chú Tâm Kinh Nghĩa Sớ ghi là:
- 3 mặt phía trước có tướng hiền lành (Từ) biểu thị cho việc nhìn thấy chúng sinh hiền thiện mà sinh tâm Từ. Đại Từ là ban vui.
- 3 mặt bên trái có tướng giận dữ biểu thị cho sự nhìn thấy chúng sinh ác mà sinh tâm Bi. Đại Bi là cứu khổ.
- 3 mặt bên phải có tướng ló nanh trắng biểu thị cho sự nhìn thấy kẻ có Tịnh Nghiệp liền phát lờ khen Hiếm có, siêng năng tinh tiến trong Phật Đạo.
- 1 mặt phía sau có tướng Bạo Đại Tiếu, biểu thị cho sự nhìn thấy chúng sinh có Thiện Ác Tạp Uế mà sinh nụ cười quái dị sửa ác hướng theo Đạo.
- 1 mặt bên trên có tướng Như Lai biểu thị cho sự mãn túc Nguyện.
- Tiên Phòng ghi nhận là:
11 mặt là 10 Địa và Phật Quả mỗi một thứ đều có 1 mặt. 10 Địa là viên mãn 10 Ba La Mật.
Dã Quyết ghi nhận là :
- 11 mặt là 11 Địa (Hoan Hỷ Địa, Ly Cấu Địa, Phát Quang Địa , Diệu Tuệ Địa, Nan Thắg Địa, Hiện Tiền Địa, Viễn Hành Địa, Bất Động Địa, Thiện Tuệ Địa, Pháp Vân Địa, Phật Địa) biểu thị cho 11 phẩm Vô Minh, lại thêm mặt gốc biểu thị cho 12 phẩm Vô Minh. Hoặc nói là: Độ 12 nhân Duyên.
- 3 mặt phía trước có tướng Tịch Tĩnh biểu thị cho nghĩa: xưa nay vốn tịch lặng của Đông Phương Bất Động Phật.
- 3 mặt bên trái có tướng phẫn nộ biểu thị cho nghĩa: giáng phục của Nam Phương Bình Đẳng Tính Trí.
- 3 mặt bên phải có tướng ló nanh bén biểu thị cho nghĩa: nói Pháp của Tây Phương Diệu Quán Sát Trí.
- 1 mặt phía sau có tướng cười giận biểu thị cho Bắc Phương Sự Nghiệp Trí.
- 1 mặt trên cùng có tướng Phật biểu thị cho Bất Nhị Pháp Giới Thể Tính Trí.
Khẩu Quyết ghi nhận là:
- 3 mặt phía trước có tướng Đại Từ biểu thị cho 3 vị Phật là: Thích Ca Thế Giới Năng Tịch Như Lai, An Lạc Thế Giới Vô Ngại Quang Như Lai, Cà Sa Tràng Thế Giới Kim Cương Kiên Cố Hoan Hỷ Như Lai.
- 3 mặt bên trái có tướng Đại Bi biểu thị cho 3 vị Phật là: Bất Thoái Chuyển Âm Thế Giới Cực Diệu Viên Mãn Hồng Liên Hoa Sổ Thân Như Lai, Tuyệt Trần Thế Giới Pháp Tràng Như Lai, Minh Đăng Thế Giới Sư Tử Như Lai.
- 3 mặt bên phải có tướng ló nanh trắng biểu thị cho 3 vị Phậ là: Trang Nghiêm Thế Giới Nhất Thiết Phật Thông Tuệ Quang Vương Như Lai, Kích Luân Thế Giới Minh Giác Như Lai, Phổ Hiền Thế Giới Hiền Thủ Như Lai.
- 1 mặt phía sau có tướng Bạo Tiếu biểu thị cho 1 vị Phật là: Nan Siêu Thế Giới Thân Phóng Pháp Quang Như Lai.
- 1 mặt Phật trên đỉnh biểu thị cho 1 vị Phật là: Diệu Quang Thế Giới Biến Chiếu Như Lai
🕉 Huyền Thanh dịch
~ có sẵn 1 bức ~