Trong tất cả chư Phật, Bồ tát, đức Quan Âm là Đức Phật siêu đẳng, ngời sáng, lừng danh với tinh thần đại vô úy cứu khổ cứu nạn. Ngài là hiện thân đại từ bi của mười phương chư Phật, với bản nguyện khai mở, hiển lộ Bồ đề tâm và công đức đại bi sẵn có nơi tâm tất cả hữu tình. Với bản nguyện này, Ngài đã từ chối thể nhập Niết bàn thanh tịnh để hiện thân trong luân hồi khổ não cứu độ chúng sinh. Chính vì Ngài có nhân duyên rất thâm thiết với chúng sinh trong cõi Sa bà, nên thế gian tôn kính Ngài là biểu tượng tối cao của tâm đại từ đại bi. Thệ nguyện của Đức Quan Âm là tùy loại ứng hiện thân tế độ tất cả chúng sinh. Trong Kinh dạy rằng: nếu chúng sinh khổ não biết nhất tâm trì tụng chân ngôn và niệm hồng danh đức Quan Âm tức thời Quán sát âm thanh liền được giải thoát!
Trong Mật điển dạy rằng: chân ngôn Lục tự “OM MANI PADME HUNG” là hiện thân tinh túy tâm giác ngộ của hết thảy chư Phật, tinh túy của Năm bộ Phật và tinh túy trì giữ bí mật. Chân ngôn này chứa đựng khẩu truyền tinh túy trong từng chữ chủng tử, là phẩm hạnh Ba la mật tuyệt hảo và là cội nguồn của hết thảy chư Phật, là con đường giác ngộ giải thoát và thành tựu đem lại phúc lợi và an bình cho tất cả chúng sinh. Chỉ nhờ tu tập sáu chữ chân ngôn hay Khẩu giác ngộ siêu việt, hành giả có thể đạt được quả vị Vô học và trở thành bậc giải thoát hướng dẫn chúng sinh. Dù một lần được nghe chân ngôn này vào lúc chết, loài kiến và các động vật sẽ thoát khỏi thân nghiệp báo và tái sinh trong cõi Tịnh độ. Việc trì niệm Sáu chữ chân ngôn này giống như mặt trời tỏa chiếu trên núi tuyết, sẽ khiến tất cả nghiệp xấu và chướng ngại mà hành giả đã tích lũy từ vô thủy trong luân hồi được tịnh hóa và tiêu trừ, giây phút lâm chung sẽ được vãng sinh vào cảnh giới Tịnh độ. Thiền định về chân ngôn này cũng đồng thời giúp thành tựu tam học Văn, Tư, Tu. Tất cả các pháp sẽ xuất hiện là Pháp thân và cánh cửa kho tàng công hạnh lợi ích chúng sinh sẽ được rộng mở. Hành trì chân ngôn này như thế sẽ giúp hành giả không bị trôi dạt tái sinh nơi lục đạo luân hồi, chứng đạt quả vị Ba la mật, đồng thời tịnh hóa tất cả các nghiệp nhiễm ô, phiền não đau khổ, các thói quen tập khí tiêu cực và chuyển hóa tất cả hiện tướng bên ngoài thành cảnh giới Tịnh độ của Tam thân. Công đức trì tụng chân ngôn Lục tự đại minh như vậy thật không thể nghĩ bàn và vô cùng thù thắng!
Ý nghĩa hình ảnh Bản tôn
Đức Quan Âm là hiện thân vô ngại của sự thanh tịnh thuần khiết, của lòng từ bi, tình yêu thương và trí tuệ với bản nguyện khai mở, hiển lộ Bồ đề tâm và công đức đại bi sẵn có nơi tâm tất cả hữu tình.
Ngài được mô tả trong sắc thân trong suốt rạng ngời, an tọa trên tòa sen trắng và đĩa mặt trăng, mỉm cười trong tình yêu thương bình đẳng, hướng cặp mắt từ bi diệu vợi với năng lực chữa lành hướng về chúng sinh. Ngài an tọa trong tư thế Kim Cương thể hiện tính nhất như của sinh tử và Niết bàn, trang sức các thiên y lụa là trang hoàng quý báu nêu biểu cho tất cả phẩm hạnh giác ngộ, áo da thú trên vai thể hiện hạnh nguyện nhập thế.
Đức Quan Âm Tứ Thủ có một mặt bốn tay nêu biểu sự chứng ngộ Tứ vô lượng Tâm, hai tay phía trước trì giữ ngọc Như ý Mani, tay phải thứ hai cầm tràng pha lê, tay trái thứ hai trì giữ hoa sen. Hai tay phía trước kết ấn Liên hoa trì giữ ngọc Như ý thể hiện năng lực của lòng từ bi và trí tuệ hiểu biết có thể viên mãn mọi tâm nguyện của chúng sinh, giúp mọi ước nguyện thế gian và xuất thế gian đều được vẹn toàn như ý. Tay phải thứ hai cầm tràng pha lê nêu biểu sự liên tục cứu giúp chúng sinh mà không bỏ xót một ai, và chuỗi tràng cũng nêu biểu chân ngôn của Ngài. Trong khi tay trái thứ hai cầm hoa sen nêu biểu Bồ đề tâm thanh tịnh dù ứng hiện thân vào các cõi luân hồi nhiễm ô để cứu giúp chúng sinh, nhưng Ngài vẫn thanh tịnh vô nhiễm như hoa sen mọc trong bùn. Tất cả đặc điểm trong hình ảnh đức Quan Âm là nêu biểu những hạnh đức, thần lực và công hạnh Ba la mật vi diệu của Ngài.
Điều đầu tiên khi quán tưởng về sắc thân vị Phật Bản tôn, chúng ta sẽ cảm nhận một đóa sen thanh tịnh thơm ngát tinh khiết như hoa sen thật. Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu rằng hoa sen cõi Tịnh độ vốn tương ứng với Trí tuệ Bản tâm, không phải hoa sen thông thường. Trên hoa sen đó là đĩa mặt trăng thanh tịnh, mát mẻ. Trên đĩa mặt trăng đó là chủng tử tự HRI (ཧྲཱིཿ), chủng tử sắc thân là sự kết hợp từ bi và trí tuệ của Đức Phật Quan Âm. Chữ chủng tử này được chuyển hóa thành sắc thân của Đức Phật Quan Âm mà chúng ta đang tu tập. Phần này là chân ngôn tâm chú của Đại bi cho nên chúng ta quán tưởng Đức Quan Âm bốn tay còn gọi là Quan Âm Tứ Thủ.
Chúng ta quán tưởng sắc thân của Đức Quan Âm thanh tịnh thuần khiết như ngàn ánh trăng thu tỏa rạng muôn nơi. Nếu đã cảm nhận ánh trăng mát mẻ như thế nào thì đây là ngàn ánh trăng hợp lại, bởi đây là ánh trăng của tình yêu thương, lòng từ bi chữa lành căn bệnh khổ đau, phiền não cho chúng sinh. Vì vậy thân của Ngài tỏa ra những ánh sáng ngũ sắc. Nhưng hầu hết là ánh sáng trắng.
Hãy suy ngẫm thiền định về những phẩm chất toàn hảo của Đức Quan Âm như sau:
1. Bởi vạn pháp là nhất như, là Pháp thân nên Đức Quan Âm có một khuôn mặt.
2. Bởi lòng từ bi của Ngài ban trải đến tất cả mọi chúng sinh nên nụ cười Ngài tỏa rạng. Khi quán tưởng đến khuôn mặt Đức Phật Quan Âm, hành giả cần trải nghiệm về những phẩm chất giác ngộ.
3. Bởi nhìn thấy mọi khổ đau của sáu đạo luân hồi, những phiền não của tất cả chúng sinh cho nên ánh mắt Ngài mở to hướng về tất cả chúng sinh.
4. Bởi Ngài khẩn cầu mười phương chư Phật thực hành thiện hạnh liên tục cứu vớt, giúp đỡ và thức tỉnh chúng sinh nên tay của Ngài chắp lại trước ngực, trì giữ bảo châu Như ý để mong nguyện năng lực của Ngài cùng mười phương chư Phật sẽ đem lại sự viên mãn tâm nguyện cho tất cả chúng sinh.
5. Bởi Bồ đề tâm thanh tịnh không mệt mỏi, làm lợi ích cho hết thảy chúng sinh không dừng nghỉ nên tay phải của Ngài trì giữ chuỗi tràng pha lê hay chúng ta gọi là tràng thạch anh trắng nêu biểu Bồ đề tâm thanh tịnh lợi ích chúng sinh.
6. Bởi phẩm chất của Đức Quan Âm là lòng từ bi, tình yêu thương thanh tịnh không tỳ vết, không bị những sự chấp trước, ích kỷ hẹp hòi làm nhiễm ô nên tay trái của Ngài cầm hoa sen ngang tai.
7. Bởi tự tính của chúng sinh và vạn pháp là trí tuệ hợp nhất với tình yêu thương nên Ngài an tọa trong tư thế Kim Cương kiết già.
8. Bởi Ngài đồng cam cộng khổ ứng thân vào sáu đạo luân hồi, tùy duyên nghiệp chúng sinh mà không mỏi mệt nên vai của Ngài khoác tấm da nai nêu biểu đồng sự, hiện muôn hình tướng lợi ích chúng sinh.
9. Bởi tình yêu thương, tâm từ bi, trí tuệ toàn tri và năng lực vô biên của Ngài làm lợi ích chúng sinh, vào thế gian tùy duyên nhưng bất biến, vì tất cả những tâm nguyện, hoàn cảnh sống của chúng sinh để ứng thân cứu độ, luôn luôn an trụ trong phẩm chất tâm thanh tịnh giác ngộ nên thiên y của Ngài mềm mại như lụa là. Hai đầu tua lụa luôn hướng thẳng lên trên nêu biểu tùy vào thế gian nhưng Ngài luôn chiến thắng tham sân si, lục dục, thất tình, đem lại cho chúng sinh sự an bình mát mẻ.
10. Bởi Đức Phật Di Đà - Thượng sư của Ngài là Pháp thân, là đối tượng của tâm chí thành, còn Đức Quan Âm là tình yêu thương hiển hiện trong hành động độ sinh cho nên Đức Phật Di Đà an trụ trên đỉnh đầu Ngài để nêu biểu sự hợp nhất chưa từng phân cách giữa tình yêu thương và trí tuệ giác ngộ.
11. Bởi đã thành tựu viên mãn tất cả các công hạnh Ba la mật nên Ngài trang hoàng bằng các bảo báu. Bởi Ngài đã thành tựu Ngũ Trí Phật, là những trí tuệ vốn sẵn có nơi mình và tất cả chúng sinh, nên đầu Ngài đội Bảo quan Ngũ Phật, cùng trang hoàng sắc tướng Đức Di Đà trên đỉnh đầu. Bởi Ngài thấu hiểu được chân lý tương đối và tuyệt đối bất khả phân, tùy duyên lợi ích chúng sinh, tùy duyên trải lòng yêu thương và trí tuệ đến mọi ngóc ngách của cuộc sống cho nên Ngài đeo khuyên tai phải và trái.
12. Bởi đã thành tựu ba thân Phật (Pháp thân, Báo thân và Hóa thân) nên cổ Ngài trang hoàng bằng ba chuỗi tràng.
13. Bởi tất cả những phẩm chất giác ngộ thể hiện bằng những công hạnh từ bi hỷ xả, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn và thiền định, trí tuệ đã viên mãn thành tựu, nên tay và chân của Ngài được trang hoàng bằng các bảo báu.
Lúc này, khi quán tưởng toàn bộ sắc thân Ngài cùng những trang hoàng bảo báu, hành giả quán tưởng muôn vàn tia sáng thanh tịnh tỏa rạng chiếu soi khắp vũ trụ, ban gia trì cho hành giả và tất cả chúng sinh. Đồng thời lúc này chúng ta và chúng sinh cùng khẩn cầu Đức Phật Đại bi, nêu biểu cho tinh túy của Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng), Tam Căn bản (Thượng sư, Bản tôn, Không hành Hộ pháp), tinh túy của tất cả mười phương ba đời chư Phật, để cầu nguyện được ban gia trì.
14. Bởi muốn tịnh hóa tất cả những thân nghiệp nhiễm ô, giúp chúng ta thành tựu được thân giác ngộ nên nơi luân xa trán của Ngài có chữ chủng tử OM (ༀ) sắc trắng tỏa sáng.
15. Bởi muốn tịnh hóa được tất cả khẩu nghiệp của chúng sinh và sinh lực nghiệp đã tạo nên sự đau khổ của đời sống này nên luân xa cổ họng của Ngài có chữ chủng tử AH (ཨཱཿ) sắc đỏ tỏa sáng.
16. Bởi muốn ban trải tình yêu thương, lòng từ bi, trí tuệ cùng tất cả phẩm chất Bồ đề tâm giúp tịnh hóa tất cả phiền não, tâm nhiễm ô của chúng ta, đem lại hạnh phúc chân thực cho cuộc sống nên luân xa tim của Ngài có chữ chủng tử HUNG (ཧཱུྃ) sắc xanh dương.
Toàn bộ thân khẩu ý của chúng sinh lúc này là Thân Khẩu Ý giác ngộ của Đức Quan Âm.
Sau khi đã trải nghiệm được sắc thân Đức Quan Âm cùng với sự tỏa rạng những ánh sáng, chúng ta tin rằng thân của Ngài tràn đầy tình yêu thương, lòng từ bi, trí tuệ và những phẩm chất giác ngộ đang tỏa chiếu, cũng chính là tình yêu thương, lòng từ bi nơi chúng ta.
Đây chính là phần chúng ta triệu thỉnh Đức Quan Âm bên trong an vị nơi trung tâm Bảo tháp. Và chúng ta hiểu rằng dù là sắc tướng, hay phẩm chất giác ngộ đều không là gì khác mà chính là trí tuệ quang minh, sự hỷ lạc, tình yêu thương vô điều kiện và tính không, trí tuệ Phật hợp nhất. Đây là lúc chúng ta an vị được Đức Quan Âm bí mật.