Kim Cương Thủ Bồ tát – Vajrapani

Vajrapāṇi (Phạn ngữ vajra là “tia sét” hay “kim cương” và pāṇi, là. “trong bàn tay”) là một trong những vị Bồ Tát đầu tiên của Phật giáo đại thừa. Ngài là người bảo vệ và hướng dẫn của nhà Phật, và tượng trưng cho quyền năng của chư Phật. Kim Cương Thủ được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm hội họa Phật giáo như là một trong ba vị bảo hộ xung quanh đức Phật. Mỗi biểu đượng đó là một đức hạnh của Phật: Văn Thù Sư Lợi (Manjushri – Biểu hiện trí tuệ của tất cả các vị Phật), Quán Thế Âm (Avalokiteshvara – Biểu hiện lòng từ bi của tất cả các vị Phật) và Kim Cương Thủ (Vajrapani – Biểu hiện sức mạnh của tất cả các vị Phật)

Theo mức độ phổ thông, Kim Cương Thủ, người giữ cây sét trượng (Biểu tượng cho sức mạnh của lòng từ bi), là vị Bồ Tát đại diện cho sức mạnh của tất cả các vị Phật giống như Quán Thế Âm Bồ Tát đại diện lòng từ bi vô lượng, Văn Thù Bồ Tát đại diện trí tuệ, và Tara những việc làm huyền diệu. Với các hành giả Du già, Kim Cương Thủ mang ý nghĩa hoàn thành sự quyết tâm sắt đá và và là biểu tượng cho sự hiệu quả không khoan nhượng trong khi thuần phục sự tiêu cực. Dáng vẻ cương mãnh của Ngài giống như một chiến binh thực thụ (pratayalidha), dựa trên tư thế của một cung thủ nhưng lại tương tự bộ vị en garde trong hàng rào phòng thủ phương Tây. Cánh tay phải vươn ra của ngài giương một cái chày kim cương và tay trái cầm một cái thọng lọng một cách khéo léo – mà ngài dùng để trói quỷ dữ. Ngài đội một cái vương miện đầu lâu với mái tóc dựng đứng từ chân tóc. Biểu hiện của ngài là phẫn nộ và ngài có ba mắt. Xung quanh cổ của ngài là vòng cổ hình rắn và thắt lưng ngài được làm bằng da hổ, đầu của nó có thể nhìn ở đầu gối bên phải của ngài

Kim Cương Thủ (Chana Dorje) màu xanh vương giả hay xanh thẫm, và trong hình tướng an bình cầm cân đối vũ khí kim cương trên tay, hay trong hình tướng phẫn nộ, cầm một chầy kim cương như chuẩn bị ném nó. Trong một dạng phẫn nộ khác, ngài cũng cầm một cái thọng lọng hoặc cái gông. Trong vẻ rất phẫn nộ, ngài mọc cánh

Kim Cương thủ được kết hợp với Phật Thích Ca Mâu Ni và được đề cập, thường bởi một cái tên khác của ngài, như một người theo để phụ giúp Đức Phật bất cứ nơi nào ngài đến. Trong cuộc đời đức Phật, sự hiện diện của ngài được gọi bởi cụm từ Sự hùng mạnh của một con voi hoặc Mahasthamaprapta – Đại Thế Chí Bồ Tát (Tây tạng. Thehenthop – Khỏe như voi). Biệt hiệu này được sử dụng đặc biệt khi ngài đứng cạnh Vô Lượng Thọ Phật (Vô lượng thọ Phật là hóa thân của A Di Đà Phật) cung với Quán Thế Âm Bồ Tát. Trong những bức ảnh, ngài thường được vẽ trên bên trái trong khi Quán Thế Âm Bồ Tát đứng bên phải của Phật A Di Đà, (Trong tiếng việt, Avalokiteshvara là Quán Thế Âm Bồ Tát hay Quan Âm, và Mahasthanaprapta được gọi là Đại Thế Chí Bồ Tát)

Đại Thế Chí Bồ Tát đã là thành viên của hàng ngũ Tăng già ưu tú người đã ngăn hòn đá lăn nhắm vào Phật trong khi ngài đang giảng về Tính không ở Rajgriha. Ngài biểu hiện “những phương tiện thiện xảo” hay những kỹ thuật trí tuệ.

Kim Cương Thủ đại diện cho sự phẫn nộ chính nghĩa, một sự liên tưởng xuất phát từ một câu chuyện, khi một người cư xử xấc xược với Phât Thích Ca Mâu Ni, từ chối trả lời câu hỏi của anh ta, ngài ngay lập tức xuất hiện trên đầu và sẵn sàng thả một tia sét.

Điều đó đã nói lên rằng khi đức Như Lai khuất phục một con thiên long khổng lồ của Udyana, ngài đã giao Kim Cương Thủ bảo vệ những con rắn khác đã bị hang phục và quy y sau cuộc tấn công của loài thần điểu Garuda. Ngài cũng là kẻ thù của Atula/ma quái sở hữu thuốc độc bậc nhất halahala

Bên cạnh việc là vô địch trong Kim cương Phật bộ, tất cả sức mạnh của năm Phật nguyên thủy được hợp nhất vào trong ngài. Bởi vậy, ngài được triệu thỉnh để vượt qua nội chướng ngại bao gồm cả tâm bệnh, và trong thời điểm tràn ngập những tình huống khó khăn.

Trong sự kết hợp của Ngài với tu tập Mật thừa, ngài thỉnh thoảng được gọi là Ghuyapati hay Chúa tể của những bí mật.


 

Viết bình luận

Bình luận

Hiện tại bài viết này chưa có bình luận.

Bài viết liên quan:

PHÁP TU TÂY TẠNG DÀNH CHO PHẬT TỬ NHẬP MÔN - Đức Đalai Lama giảng

Phụ Lục 2: Chánh Văn – Tám Thi Kệ Chuyển Tâm Geshe Langri Thangpa (thế kỷ thứ 12) Bản tiếng Việt 1.      Với quyết tâm thành tựu Lợi lạc lớn lao nhất Nhờ tất cả chúng sinh, Tôi nguyện luôn giữ gìn Chúng sinh trong đáy tim, Vì chúng sinh quí hơn Cả bảo châu như ý. 2.      Khi gặp gỡ tiếp xúc Với bất kỳ một ai, Nguyện tôi luôn thấy mình Là kẻ thấp kém nhất, Từ đáy lòng chân thật Luôn tôn kính mọi người Như kính bậc tối cao. 3.      Nguyện trong từng hành động Tôi luôn tự xét mình, Phiền não vừa dấy lên, Ðe dọa mình và người, Nguyện tức thì nhận...

PHÁP TU TÂY TẠNG DÀNH CHO PHẬT TỬ NHẬP MÔN - Đức Đalai Lama giảng

Nguyện qui y Phật,
là bậc toàn giác / là đại đạo sư
giáo hóa chúng sinh / bằng với chánh pháp
trong sáng chân thật / đến từ trí tuệ
chứng ngộ viên mãn.

 

PHÁP TU TÂY TẠNG DÀNH CHO PHẬT TỬ NHẬP MÔN - Đức Đalai Lama giảng

OM WAGI SHVARI MUM là minh chú của Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, rất tốt cho sinh viên học sinh. Tụng chú này tăng trí thông minh, giúp đầu óc bén nhạy. Nhiều lúc chúng tôi tụng DHIH DHIH DHIH DHIH một trăm lẻ tám lần liên tục hay nhiều hơn, trong cùng một hơi thở. Lấy một hơi thật dài, rồi tụng một mạch DHIH DHIH DHIH DHIH… làm như vậy trí nhớ sẽ gia tăng.

PHÁP TU TÂY TẠNG DÀNH CHO PHẬT TỬ NHẬP MÔN - Đức Đalai Lama giảng

Ai cũng biết rằng khi chết, tiền tài danh vọng hay quyền lợi trong đời tất cả đều không thể giúp được gì. Ðời sống tự nó là một hiện tượng biến chuyển liên tục. Nếu chỉ quan tâm đến đời sống hiện tại mà quên đi mọi kiếp về sau, làm như vậy dễ sinh tâm mê đắm hưởng thụ kiếp này, càng lúc càng nhiều chấp vọng, càng thêm tham đắm. 

PHÁP TU TÂY TẠNG DÀNH CHO PHẬT TỬ NHẬP MÔN - Đức Đalai Lama giảng

Mỗi khi gặp khó khăn trong cuộc sống, có một phương pháp đối phó rất đơn giản là quên đi tất cả. Bao giờ tinh thần mỏi mệt, tâm trí nặng nề, ta có thể vất hết sau lưng, đi nghỉ mát vài ngày, một tuần. Nhưng phương pháp này dù sao vẫn rất tạm bợ. Vấn đề còn nguyên chưa được giải quyết.

PHÁP TU TÂY TẠNG DÀNH CHO PHẬT TỬ NHẬP MÔN - Đức Đalai Lama giảng

Tây Tạng có một câu chuyện như sau: một hôm trời đổ mưa lớn, bên đường có pho tượng Phật đẫm nước mưa. Có người đi ngang thấy vậy nghĩ rằng: “Không thể để Phật ướt”. Anh ta nhìn quanh, thấy có đôi giày cũ vất bên đường, bèn nhặt để lên đầu tượng Phật để che mưa. Một người khác đi ngang, thấy vậy nghĩ rằng: “Ai lại để giày trên đầu tượng Phật?” Anh ta bèn lượm giày vất đi. Cả hai đều có tâm tốt lành đối với tượng Phật, vì vậy hành động tuy trái ngược nhưng đều gieo thiện nghiệp như nhau.

PHÁP TU TÂY TẠNG DÀNH CHO PHẬT TỬ NHẬP MÔN - Đức Đalai Lama giảng

Trong tất cả những công phu hành trì Phật giáo, phát tâm bồ đề được xem là công phu quan trọng quí giá nhất. Tâm bồ đề bắt rễ từ đại bi. Không có chúng sinh thì không thể khởi tâm đại bi. Phật đà và Bồ tát có thể hộ trì cho ta phát tâm bồ đề, nhưng không thể giúp chúng ta phát tâm đại bi. Ðại bi chỉ có thể có được nhờ hướng về chúng sinh.

PHÁP TU TÂY TẠNG DÀNH CHO PHẬT TỬ NHẬP MÔN - Đức Đalai Lama giảng

Khế kinh dạy nhân nào sinh quả nấy. Tất cả mọi kinh nghiệm chúng ta đang trải qua đều là quả, sinh ra từ nhân là hành động của chính mình trong quá khứ. Ngoài ra không có Đấng Sáng Tạo nào khác, cũng không có Đấng Tối Cao nào hiện hữu trường tồn, vượt ngoài nhân quả.

Phật dạy có hai loại nhân quả. Một là nhân quả tương ứng với quá trình ô nhiễm, ví dụ nhân ác độc sinh quả khổ đau. Hai là nhân quả tương ứng với quá trình thanh tịnh, ví dụ nhân tốt lành sinh quả an lạc.

Pháp Khí Mật Tông - Bảo Liên. Cung cấp bởi Sapo.
Lên đầu trang
Pháp Khí Mật Tông Pháp Khí Mật Tông Pháp Khí Mật Tông
Trang chủ Danh mục Liên hệ Tài khoản Giỏ hàng