Con đường Trung đạo

Trên hành trình dẫn đến giác ngộ, chúng ta phải tránh cạm bẫy của 2 thái cực, một bên là sự đam mê chạy theo những tham vọng của bản thân, bên kia là thái cực ngược lại, dồn ép mình vào những nguyên tắc cứng nhắc, khổ hạnh, hành hạ thân và tâm một cách bất hợp lý.

Con đường Trung đạo

Trên hành trình dẫn đến giác ngộ, chúng ta phải tránh cạm bẫy của 2 thái cực, một bên là sự đam mê chạy theo những tham vọng của bản thân, bên kia là thái cực ngược lại, dồn ép mình vào những nguyên tắc cứng nhắc, khổ hạnh, hành hạ thân và tâm một cách bất hợp lý. Con đường dẫn đến giác ngộ và trí tuệ của Tứ diệu đế (Khổ - /Tập, Diệt -  /Đạo -) siêu vượt 2 thái cực trên, giúp ta đạt được sự cân bằng và an bình nội tâm. Con đường này gọi là Trung đạo (madhyamā-pratipad), được xây dựng trên nền tảng Bát chính đạo  gồm Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mạng, Chính tinh tấn, Chính niệm, Chính định (Giới - Định - Tuệ).

Có thể nói, Trung đạo là con đường xa lánh 2 trạng thái cực đoan chấp có hoặc chấp không, chấp trường tồn hay chấp đoạn diệt. Trung đạo cũng chính là chân lý bất nhị, hợp nhất cả hai thái cực “có” và “không”. Với quan kiến Trung đạo, bạn cần nhận ra mọi trải nghiệm trong cuộc sống đều là sự phóng chiếu của tâm. Do hiểu rằng mọi thứ đều không thực sự tồn tại, đều là giả huyễn nên bạn không bám chấp thái quá vào cuộc sống. Bên cạnh đó, bạn cũng cần tôn trọng tất cả bởi thấy rằng tuy không thật nhưng chúng vẫn đang tồn tại. Vạn pháp xuất hiện và biến mất do những nhân duyên từ vô thủy. Những chúng sinh vô minh cho rằng vạn pháp trong cuộc sống này tồn tại hay không tồn tại nhưng người có trí tuệ sẽ nhìn cuộc sống siêu vượt hai phạm trù tồn tại và không tồn tại.

Trung đạo không chỉ là cách nhìn nhận, hiểu biết về bản chất của cuộc sống và tự tính của vạn pháp. Nó còn là phương pháp tu tập thực hành giúp bạn tiêu trừ vô minh, xa lìa đau khổ, có được trí tuệ và an vui ngay trong đời hiện tại.

Chẳng hạn khi nhìn các sắc tướng, ta có thể khởi tâm phân biệt rằng chúng tốt hay xấu, đẹp hay không đẹp. Nhưng nếu áp dụng Trung đạo, bạn cần sáng suốt nhận ra rằng dù đẹp hay xấu đều, tất cả cùng là sự ngộ nhận, phóng chiếu của tâm mà thôi. Bạn có sự phóng chiếu của riêng bạn khi cho rằng bông hoa này đẹp. Nhưng người khác cũng lại có sự phóng chiếu riêng khi nói rằng bông hoa đó xấu. Nếu hiểu lý Trung đạo, bạn có thể buông xả và chấp nhận sự khác biệt này. Ngược lại, nếu cố chấp mãi vào quan kiến cá nhân thì điều này có thể phát sinh mâu thuẫn, xung đột như những gì thường thấy trong đời sống hiện nay.

Đối với âm thanh cũng vậy, bạn cần quán chiếu để nhận ra bản chất của mọi loại âm thanh, dù là du dương, dễ chịu hay đinh tai, khó nghe, dù là lời khen hay tiếng chê, đều giống nhau về mặt bản chất, đều không có thật tính và đều do duyên hợp mà thành.

Việc áp dụng thực hành Trung đạo đối với các xúc tình cũng tương tự. Chúng ta cần hiểu rằng các trạng thái tâm tham lam, sân hận, phiền não đều là vô thường, đều không có tự tính, do vô minh và chấp ngã gây nên. Trí tuệ Trung đạo quán chiếu những xúc tình tiêu cực thấy rõ chúng vốn không phải là tiêu cực. Khi chúng ta cảm thấy giận dữ, hãy tự hỏi mình giận dữ có bản chất không? Cách tiếp cận đúng đắn là, khi sân giận phát khởi, thay vì để bản năng phóng chiếu và phản ứng theo trạng thái sân giận đó, hãy buông xả để nó tự nhiên và an trụ trong trạng thái này. Khi đó, sân giận sẽ tự nhiên được trả về bản chất của chính nó, tức về Trung đạo, vượt qua những khái niệm về giận hay không giận, nó sẽ biến mất. Cách thực hành tương tự cũng cần áp dụng cho cảm thụ hạnh phúc, khổ đau và tất cả những xúc tình tích cực hay tiêu cực mà chúng ta phải đối diện và trải nghiệm.

Nói tóm lại, Trung đạo dạy bạn biết đón nhận tất cả mọi thứ, tự nhiên như nó vốn là, không khởi tâm chấp trước, phân biệt hay vọng tưởng nhị nguyên. Hiểu và thực hành được như thế sẽ giúp bạn thấu tỏ được bản chất của cuộc sống và đạt được tự tại vô ngại. 

Viết bình luận

Bình luận

Hiện tại bài viết này chưa có bình luận.

Bài viết liên quan:

Ý nghĩa bánh xe chuyển pháp luân.

Hỏi: Nhìn phù hiệu bánh xe có 12 căm, có người nói, đó là bánh xe luân hồi. Họ giải thích 12 căm là tượng trưng cho Thập nhị nhân duyên. Có người lại nói, đó là bánh xe Chuyển pháp luân. Xin hỏi: Qua 2 điều nói trên, không biết điều nào đúng ?

Ý nghĩa tràng hạt.

Đáp: Tràng hạt là một phương tiện trong muôn ngàn phương tiện khác. Trong Phật giáo có vô số phương tiện. Mọi hình thức pháp khí hay vật thể đều là những phương tiện. Tuy nhiên, không phải vô cớ mà người ta bày ra. Dĩ nhiên, mỗi một hình thức của một vật thể đều có một ý nghĩa biểu trưng đặc biệt của nó.

Ý nghĩa chắp tay như thế nào?

Người Ấn Độ cho rằng tay phải là tay thần thánh, tay trái là tay bất tịnh. Nhưng nếu 2 tay hiệp lại làm một thì trở thành sự hợp nhất giữa phương diện thánh thiện và nhiễm ô, cho nên hiệp chưởng là biểu hiện bộ mặt chân thật nhất của con người. Nghĩa " Bất cấu bất tịnh " trong Bát Nhã Tâm Kinh chính là ý nầy.

VĂN THÙ CỬU CUNG BÁT QUÁI PHÙ

Văn Thù Cửu Cung Bát Quái Phù do Tổ Sư khai sơn của Mật Tông Tây Tạng là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ (Padma-saṃbhava) vì từ bi thương xót tất cả chúng sinh ở Thế Gian do thọ nhận Thời, Không, Phương Vị chẳng cát tường đã sinh ra chướng nạn, nên đặc biệt gom tập ba đất Phạn, Hán, Tạng phá trừ các loại hung sát để trấn nhà cửa, an cư diệu bảo mà thành.

Cúng dường Mandala tịnh hoá bám chấp vun bồi công đức

Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó. Cho đi mọi thứ, nhờ việc cúng dường mạn-đà-la bên ngoài, bên trong và bí mật, sẽ xua tan mọi kiểu bám chấp. Cùng lúc đó, một cách tự nhiên, việc tích lũy công đức được hoàn thành. Người ta nói rằng, việc cúng dường mạn-đà-la đầu tiên được tiến hành sau khi Đức Phật thành tựu Chánh giác, khi vua của các vị trời,...

Chúng sinh bị cột chặt vào sinh tử luân hồi bởi dục vọng và bám chấp

Trải qua suốt vòng luân hồi từ vô thủy cho tới ngày nay, không có một sinh thái (life form) nào mà ta đã chưa từng sinh ra trong đó. Đã bao lần những dục vọng của ta khiến đầu và tứ chi ta đứt rời. Nếu có thể chất đống ở tại một nơi tất cả những tứ chi mà ta đã mất khi làm thân kiến và làm những côn trùng khác thì đống tứ chi ấy còn cao hơn Núi Tu Di. Những giọt nước mắt mà ta đã khóc bởi cái lạnh, cái đói và cái...

Cầu nguyện 21 Lục Độ Phật Mẫu viên mãn mọi tâm nguyện trong những ngày đầu năm mới

Đức Lục Độ Mẫu Phật là một vị Phật có khả năng giải thoát chúng sinh khỏi tất cả những chướng ngại trong cuộc sống, như chướng ngại về công việc, sức khỏe, chướng ngại trong gia đình, trong kinh doanh...Trong các khóa lễ đầu năm mới tại gia đình hay tại các tự viện, người dân các quốc gia vùng Himalaya ngày nay vẫn duy trì truyền thống thực hành pháp tu Lục Độ Phật Mẫu giúp khiển trừ chướng ngại, nạn dịch, hiểm nguy, để cầu nguyện viên mãn mọi tâm nguyện của bản thân cũng như của...

[Mật Tông vấn đáp]

1. Hỏi: Còn quan niệm của người tu Mật ra sao?

Đáp: Phần này trình bày về “cái nhìn” của người tu Mật với nhân sinh và vũ trụ. Điều này rất quan trọng, vì nó là mũi tên chỉ đường, và là cây gậy chống cho hành giả.

Pháp Khí Mật Tông - Bảo Liên. Cung cấp bởi Sapo.
Lên đầu trang
Pháp Khí Mật Tông Pháp Khí Mật Tông Pháp Khí Mật Tông
Trang chủ Danh mục Liên hệ Tài khoản Giỏ hàng